Tên di sản : Hồ Cửa Đặt

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di sản : Danh lam thắng cảnh

Sô quyết định : 345/QĐ-UBND

Giới thiệu

Nhìn trên bản đồ phân bố và khảo sát thực địa cho thấy khu di tích Danh lam thắng cảnh Hồ Cửa Đặt là một hệ thống liên hoàn bao gồm các dạng địa hình do thiên nhiên mang lại như núi non, sông nước cùng với sự kiến tạo các công trình của con người đã làm nên một vùng non nước kỳ thú, mến yêu.

Hồ Cửa Đặt chạy dài theo hướng Đông Tây. Phía Đông giáp xã Lương Sơn, xã Xuân Cẩm; phía Tây giáp xã Lương Sơn; phía Nam giáp xã Vạn Xuân và xã Lương Sơn; phía Bắc giáp xã Lương Sơn và xã Yên Nhân.

Tổng thể của khu di tích này bao gồm: Miếu Thượng, Đập nước, Hồ nước, núi đồi, thảm thực vật và động vật. Du khách đến thăm di tích thắng cảnh Hồ Cửa Đặt trước hết vào viếng thăm di tích đền thờ Cầm Bá Thước và Bà chúa Thượng Ngàn, sau đó từ Trung tâm Ban Quản lý Hồ qua Đập Chính chúng ta vào thắp hương, bái yết sơn thần ở Miếu Thượng, sau đó đi thuyền trên lòng hồ ngắm cảnh men theo sườn núi thăm cảnh quan sinh thái Vườn quốc gia Xuân Liên, cuối cùng thăm các công trình xây dựng ở khu Trung tâm như Đập Chính, Tràn xả lũ, Nhà máy Thủy điện Cửa Đặt.

Miếu Thượng:

Miếu Thượng (còn được gọi với một tên khác là Miếu Sơn Thần), được xây dựng trên đỉnh đồi đất cao nằm liền kề với khu vực Đập chính.

Miếu Thượng được các kiến trúc sư xây dựng công trình thủy lợi Cửa Đặt thực hiện vào năm 2010 nhằm mục đích thờ tự Sơn Thần (thần Tản Viên – một vị thần tiêu biểu trong hệ thống Tứ bất tử của tín ngưỡng Việt Nam) và những người tham gia xây dựng công trình thủy lợi quan trọng này hy sinh trong thời gian từ năm 2004 đến năm 2010.

Miếu được xây dựng theo thức kiến trúc truyền thống hình chữ Nhất thu hồi bít đốc gồm 3 gian, có kích thước chiều rộng 3m, chiều dài 5,5m; hiên rộng 1,2m, chiều cao từ Thượng lương xuống nền nhà là 4m; phần mái đổ bê tông, dán ngói mũi hài; nền nhà lát gách bát.

Miếu được mở 3 cửa ra vào: có kích thước chiều cao chung là 1,92m; cửa giữa có chiều rộng 0,39 x 40cm gồm 4 cánh; hai cửa bên có kích thước 0,39 x 40cm gồm có 2 cánh; cánh cửa bằng gỗ làm theo kiểu thượng song hạ bản.

Bài trí đồ thờ:

Bàn thờ ở giữa có kích thước, chiều cao 1,30m, chiều dài 1,43m, chiều rộng 0,98m, được xây bằng gạch, trát vữa xi măng. Đây là nơi đặt bát hương thờ Sơn Thần (thần Tản Viên).

Bàn thờ Bên tả: là nơi thờ những người đã hy sinh trong quá trình xây dựng Hồ Cửa Đặt, bàn thờ có kích thước chiều cao 0,97m, chiều dài 0,89m, chiều rộng 1,43m, được xây bằng gạch, trát vữa xi măng.

Bàn thờ bên Hữu: là nơi đặt bát hương thờ Thổ thần (Thần Thổ địa), bệ thờ có kích thước chiều cao 0,97m, chiều dài 0,98m, chiều rộng 1,43m, được xây bằng gạch, vữa, xi măng.

Ngoài sân: phía trước miếu thờ đặt các hiện vật đá như 02 Voi đá, 02 chân nến đá, 01 bát hương đá kích thước lớn.

Du khách đứng trên đỉnh sân Miếu Thượng có thể nhìn thấy cả một vùng không gian rộng lớn bao gồm toàn bộ hệ thống núi đồi ở phía Tây, phía Bắc, phía Đông và phía Nam cùng với toàn bộ hệ thống lòng hồ và các công trình Đập nước, Nhà máy Thủy điện, Đập tràn...cho chúng ta thấy một cảm giác trước vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ được tô điểm bởi các công trình do chính con người tạo dựng.

Hồ nước: Hồ Cửa Đặt được xây dựng với sức chứa nước tới 1,45 tỷ mỏ nước, có diện tích 3.600ha; với mực nước gia cường lòng hồ nằm trên địa bàn hành chính của 4 xã là Vạn Xuân, Yên Nhân, Lương Sơn và Xuân Cẩm. Toàn bộ lòng hồ được kẹp lại giữa các vách núi đồi tạo nên một thung lũng lớn.

Từ khu vực trung tâm Đập Chính, ngược dòng đi về hướng Bắc và hướng Tây, lòng hồ phân bố như hình nan quạt, gồm dòng chính và những chi lưu nhỏ. Dòng phía Bắc có điểm nút cuối cùng về phía Tây giáp với bản Chang, bản Dục (vùng đất Quỳnh Châu xưa), nay thuộc địa bàn xã Đồng Văn, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, có tổng chiều dài 45,3km. Toàn bộ khu vực lòng hồ này như một hành lang bị kẹp giữa các vách núi đá và những dải đồi đất đỏ phong hoá, nó chính là một bộ phận của hệ thống núi nằm trong "cánh cung sông Mã", được các nhà địa lý gọi là “dải đồi núi trung sông Chư”. Đặc điểm của những dãy núi ở Hồ Cửa Đặt nói riêng và huyện Thường Xuân nói chung là "kết quả của nhiều đợt vận động tạo núi khác nhau, đợt trước núi này nâng lên cao, ngoại lực tàn phá đi, đợt sau lại mạnh lên, phá vỡ cấu trúc đợt trước làm cho mạch núi, khối núi sắp xếp lộn xộn. Đá Mác ma xâm nhập, Mác ma phun trào chỗ nổi cao, chỗ tụt xuống". Xen vào các đá Mác ma này còn có các trầm tích và biến chất như đá vôi, đá hoa, đá phiến. Phủ trên bề mặt những dãy núi đồi này là một thảm thực vật nhiệt đới phong phú gồm những lâm sản quý; đặc biệt đây có cây Quế (Quế ngọc Châu Thường) không những được ưa chuộng trong nước mà còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao. Ngoài ra, bên cạnh thảm thực vật phong phú, đa dạng, còn có những loài động vật như gấu, ngựa, sơn dương, các loài bò sát như rùa núi vàng, rắn và hàng trăm loài chim quý như: sáo, hoàng yến...làm tổ trên những tán cây rừng.

Nằm ở độ cao so với mặt nước biển là 112m, Hồ Cửa Đặt là hồ nước ngọt lớn nhất trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Độ sâu bình quân là 60m, nơi sâu nhất có thể đến gần 100m. Nước hồ không ngừng được cung cấp từ hàng ngàn con suối lớn nhỏ, đổ về từ các dãy núi đồi của vườn Quốc gia Xuân Liên. Bên cạnh hồ nước, các dãy núi cao ở phía Tây là hồ đã ngăn chặn sự xâm nhập của các đợt gió Lào và gió Tây Nam, nên hồ cả năm nước không bị nóng, bờ hồ uốn lượn quanh co hình thành nên những hòn nước như Hón Cáy, Hón Mong... bên bờ cây cối xanh tốt, nước hồ trong suốt như gương, trong hồ cá tôm đầy ắp. Với cảnh sắc tuyệt đẹp của núi rừng, hồ nước và sản vật phong phú, Hồ Cửa Đặt được con người ví như "Hòn ngọc trên cao nguyên", có khả năng lớn cho phát triển ngành du lịch. Hồ Cửa Đặt lại nằm trong không gian Tiểu vùng khí hậu đồi núi cao phía Tây huyện Lang Chánh - Thường Xuân, có nền nhiệt độ thấp (không quá 7.300 - 8000°c/năm), không có nhiệt độ thấp dưới 0 độ C, trung bình tháng 1 dưới 14°c, tháng 7 từ 24 - 26°c, cao nhất 37°c. Có lượng mưa nhiều nhất tỉnh hơn 2.200mm với 160 ngày mưa trong năm; gió không mạnh (kể cả gió bão). Trên nền nhiệt độ và không khí như vậy là những điều kiện vô cùng thuận lợi cho khách du lịch đến đây thăm quan, nghỉ dưỡng cả bốn mùa trong năm.

Những người ưa thích du lịch, ngược lòng hồ trên chặng hành trình 45km theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, chúng ta có thể ngắm nhìn một dải đất không những nổi tiếng về ý nghĩa chiến lược của nó mà còn có nhiều cảnh đẹp của hồ và ở hai bên bờ mang lại. Ở đây, chúng ta có thể quan sát những dạng địa hình được cấu tạo bằng những loại đá có tuổi rất khác nhau lại nằm ở rất gần nhau, có thể nói là ken vào nhau, làm cho phong cảnh trở nên đa dạng và kỳ thú như những bức tranh vẽ phác giàu tưởng tượng nhất. Những dãy đồi đá phiến mềm mại màu vàng, màu đỏ nằm liền kề với những chỏm đá vôi màu xám trắng có vách dựng đứng, những đỉnh núi đá tím sẫm vươn lên cao như những chiếc sừng khổng lồ được phủ một thảm thực vật xanh ngát, những đồi cát kết, sứ kết trắng bệch bị xâm thực xẻ thành những rãnh dài - một hiện tượng điển hình của quá trình phong hoá của trái đất xảy ra cách đây hàng triệu năm.

Trên mặt nước phẳng lặng và trong suốt một cách kỳ lạ, đi xuôi thuyền trên lòng hồ, du khách được đi qua những khúc cong, có đường kính rộng rãi và tốc độ nước khá bằng phẳng, chúng ta có thể ngắm nhìn được từ xa chân trời bao quanh rộng rãi, với những khối mây trắng khổng lồ đủ các loại hình thù; không khí có vẻ tươi mát và trong sáng đặc biệt như ở các bầu trời phương Bắc. Màu sắc cây cỏ cũng có nhiều cấp độ trung gian hơn, do đó mà hài hoà hơn. Tất cả những hình ảnh đó khi hiện, khi mất, khi rõ, khi mờ, tăng theo góc độ mà tầm nhìn có thể với tới qua sương mù và ánh sáng.

Không có gì vui thích hơn là được đi ngược, xuôi trên lòng hồ rộng rãi, phẳng lặng giữa dòng nước trong xanh như thế, sự kỳ diệu của cảnh sắc đã làm cho chúng ta luôn phải nghĩ đến những điều kỳ diệu trong sự tạo tác của tự nhiên, những biến cố thuộc về những thời kỳ địa chất xa xưa nhưng bây giờ đang hiện ra trước mắt dưới dạng những kiểu địa hình cụ thể, khiến chúng ta nghĩ đến lịch sử hình thành lãnh thổ độc đáo này quả thực đầy biến động, bắt đầu xảy ra từ hàng trăm triệu năm trở về trước mà đến bây giờ vẫn chưa thôi.

Ngược xuôi lòng Hồ Cửa Đặt, ở hai bên bờ du khách có thể dừng lại đi theo những lối mòn lên thăm Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên. Đây là một vườn quốc gia rộng lớn có tổng diện tích khu vực là 27.668ha, trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 19.800 ha, phân khu phục hồi sinh thái 7.848ha, phân khu dịch vụ, hành chính 20ha. Ngoài ra, vùng đệm của khu bảo tồn thiên nhiên có diện tích 33.590ha thuộc địa phận các xã Bát Mọt, Yên Nhân, Xuân Khao, Xuân Liên, Xuân Mỹ, Vạn Xuân, huyện Thường Xuân.

Sau khi các xã Xuân Mỹ, Xuân Liên và Xuân Khao (vùng lòng hồ chứa nước Cửa Đặt) được giải thể năm 2008, Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên thuộc địa bàn các xã Bát Mọt, Yên Nhân, Vạn Xuân, huyện Thường Xuân. Ở đây nền địa chất của vùng rất đa dạng bao gồm cả đá trầm tích, đá phiến, spilite, aldezite, và nhiều loại đá biến chất khác như đá lửa và đá kính.

Bốn kiểu rừng chính ở Xuân Liên là rừng lá kim hỗn giao và rừng lá rộng thường xanh trên núi thấp chiếm khoảng 18% tổng diện tích khu bảo tồn, ở các đai cao trên 800 m, với các loài cây gỗ lá rộng của họ Dẻ, họ Long não và họ Dầu (Dipterocarpaceae).

Kiểu rừng chính thứ hai là rừng thường xanh trên đất thấp xuất hiện ở độ cao dưới 800 m. Kiểu rừng này đã bị chặt phá và suy thoái nghiêm trọng và chỉ chiếm 3% tổng diện tích tự nhiên của vùng. Các kiểu rừng thí sinh có rừng hỗn giao tre nứa, cây gỗ và rừng thường xanh phục hồi, cả hai đều là dạng thảm thực vật thí sinh phát triển từ rừng sau khai thác hoặc sau nương rẫy. Các kiểu thảm thực vật còn lại là rừng tre nứa thuần loại, trảng cỏ và trảng cây bụi.

Trong số 560 loài thực vật ghi nhận được tại Xuân Liên năm 1998, có 4 loài là các loài đặc hữu Việt Nam là cây và hương (Cinnamomum balansae), Cọ mai nháp lá nhỏ (Colona poilanei), loài Croton boniana và cây lá nến không gai (Macaranga balansae).

Tính đa dạng động vật của khu vực này còn tương đối cao so với các khu bảo vệ khác ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Tổng số có 38 loài thú được ghi nhận, mười trong số đó là các loài bị đe dọa trên toàn cầu. Các loài thú được ghi nhận có tầm quan trọng đặc biệt đối với công tác bảo tồn bao bồm bò tót, vọoc xám, vượn đen má rắng và mang Roosevelt (Muntiacus rooseveltorum).

Đây là ghi nhận đầu tiên về mang Roosevelt kể từ khi loài này được phát hiện tại Lào 69 năm trước, đây cũng là ghi nhận đầu tiên của loài này ở Việt Nam. Tổng số có 134 loài chim được ghi nhận trong quá trình điều tra trong đó có một loài phân bố hẹp là khướu mỏ dài. Theo thống kê sơ bộ, khu bảo tồn có 136 loài chim thuộc 11 bộ 29 họ điển hình, một số loài có số lượng lớn như gà rừng, hồng hoàng; 53 loài bò sát và lưỡng cư, 143 loài bướm. To Theo thống kê sơ bộ, khu bảo tồn hiện có hơn 6.000ha rừng nguyên sinh, 572 loài thực vật, trong đó có 156 cây thuốc quý, hơn 40 loài cây ăn quả, hơn 300 loài cây lấy gỗ, 23 loài cây lấy nhựa và dầu như trầm gió, bời lời, quế và hàng trăm cây thuốc quý, cây đan lát, hàng chục họ lan. Đặc biệt, ở đây còn có loài cọ Bắc Sơn quanh năm tốt tươi, tán lá mọc chụm ở ngọn, dáng to cao, tạo nên vẻ đẹp uy nghi, hùng vĩ.

Các công trình xây dựng liên quan đến Hồ Cửa Đặt:

Đập chính: là một công trình xây dựng kiên cố bền vững nằm ở khu vực trung tâm của công trình, có chiều cao 118,75m, chiều dài 987,13m, chiều rộng mặt đập B = 10m, được thiết kế theo công nghệ đập đá đổ đầm nện chống thấm bê tông bản mặt (Conerete Face Rockfill Dam). Đây là một công nghệ mới được áp dụng ở nước ta, là công trình đầu tiên trong ngành thủy lợi áp dụng công nghệ này. Đập Cửa Đặt cũng là đập có quy mô lớn nhất trong các đập đá được xây dựng ở Việt Nam. Bên cạnh đó cũng có đập Na Hang (Tuyên Quang) và đập Rào Quán (Quảng Trị), nhưng nhỏ hơn.

Tràn xả lũ: được kết cấu bê tông cốt thép với hình thức xả mặt, tiêu năng mũi phun, lưu lượng xả lớn nhất ứng với tần suất P = 0,1% là: 8.200m. Kết cấu tràn có 5 khoang, kích thước mỗi khoang (11 x 17m); kiểu cửa bằng van cung, đóng mở bằng xi lanh thủy lực; phai sửa chữa bằng thép, nâng hạ bằng cần trục có sức nâng 30 tấn. Cầu giao thông trên đỉnh tràn kết cấu bê tông cốt thép, trải trọng thiết kế H30 – XB80, rộng 10,4m, đặt ở hạ trụ pin và trụ biên, phía trái nối với đường đỉnh đập, phía phải nối với đường quản lý rất thuận tiện cho việc quản lý vận hành.

Nhà máy Thủy điện Cửa Đặt: được xây dựng trên tổng mặt bằng gần 20 ha phía hạ lưu bờ phải đập chính, với quy mô 2 tổ máy có tổng công suất 97MN, 46km đường dây 110KV. Ngày 19/5/2010, Nhà máy Thủy điện Cửa Đặt đã chính thức hòa lưới điện Quốc gia, phục vụ kịp thời sản xuất và đời sống nhân dân.

Cụm công trình đập Dốc Cáy: gồm Đập, Tuy Nen lấy nước và Nhà máy Thủy điện, có chiều dài 220.4m, là công trình đập đất bê tông bản mặt, mặt đập đổ bê tông, chiều rộng mặt đập 6m.

Tuy Nen lấy nước qua đập dẫn vào tu bin phát điện, đường kính 63m, chế độ làm việc có áp, hình thức kết cấu bằng bê tông cốt thép có hệ thống đóng mở thủy lực.

Nhà máy Thủy điện: có công suất 15MN gồm 3 tổ máy do Công ty cổ phần thủy điện Bắc Miền Trung xây dựng và quản lý vận hành.

Đập phụ Hón Can: Nằm cách đập chính về phía Hữu 18km thuộc địa bàn xã Vạn Xuân, kết cấu đập đất, bê tông lát mái thượng lưu. Đập có chiều cao 37,5m, chiều dài 357m.

Đập phụ Bản Trác: Nằm cách đập phụ Dốc Cáy 12km về phía bên Tả, gồm 2 đọan đập đất lát tấm bê tông mái thượng lưu, đập có kích thước chiều cao 33m, chiều dài 85m.

Nhìn trên tổng thể: Hồ Cửa Đặt có chiều dài tính đến Nhà máy Thủy điện Hủa Na khoảng 57km, giáp đất bạn Lào là 91,09km, đoạn từ tuyến đập đến giáp huyện Quế phong là 45,3km.

Tóm lại: Khu di tích danh thắng Hồ Cửa Đặt là hệ thống các điều kiện tự nhiên cùng với các công trình xây dựng hiện đại, tạo thành một quần thể lý tưởng cho khu vực này đã tạo thành thành điểm đến của du lịch sinh thái hứa bạn ở khu vực miền Tây Thanh Hóa trước mắt cũng như lâu dài.

Hình ảnh Hồ Cửa Đặt

Hồ Cửa Đặt

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật